5
Chữ viết trên tường
Vua Bên-sát-xa mở một đại tiệc thết đãi một ngàn quan khách và uống rượu với họ. Trong khi đang uống rượu thì vua Bên-sát-xa ra lệnh mang các ly chén bằng vàng và bạc mà cha ông* cha ông Hay “cha.” Người ta không rõ là Bên-sát-xa có phải là cháu của Nê-bu-cát-nết-xa hay không. Trong câu nầy chữ “cha ông” ám chỉ vua tiền nhiệm. Xem câu 11, 18. mình là Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem để vua, các quan khách, các bà vợ và các hầu thiếp dùng uống rượu. Cho nên họ mang các ly chén bằng vàng đã lấy từ trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem. Vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ, và các hầu thiếp dùng các ly chén đó để uống rượu. Trong khi đang uống thì họ ca ngợi các thần của mình là các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, và đá.
Bỗng nhiên có các ngón tay của bàn tay người xuất hiện viết trên vách tường, gần chân đèn trong cung điện. Nhà vua chăm chú nhìn bàn tay đang viết.
Vua Bên-sát-xa đâm ra kinh hoàng. Mặt vua tái xanh, các đầu gối chạm vào nhau, vua đứng lên không nổi vì hai chân đã bủn rủn. Vua gọi các thuật sĩ, học giả, các phù thủy của Ba-by-lôn lại bảo, “Ai có thể đọc và giải thích những chữ nầy sẽ được mặc áo vải tím áo vải tím Loại áo mà những người giàu sang và quyền thế mặc, như vua chẳng hạn. Xem câu 16. dành cho vua và được mang vòng vàng vào cổ. Ta sẽ phong cho người đó làm quan lớn thứ ba trong nước.”
Các nhà thông thái của vua vào nhưng họ không thể đọc được hay giải nghĩa dòng chữ đó. Vua Bên-sát-xa càng đâm ra sợ hãi, mặt vua càng biến sắc. Các quan khách của hoàng gia cũng hoang mang.
10 Lúc đó bà thái hậu tức mẹ vua nghe tiếng của vua và các khách hoàng gia nên bước vào phòng tiệc. Bà bảo, “Vua vạn tuế! Đừng sợ, xin đừng tái mặt vì hoảng hốt! 11 Có một người trong nước vua đầy dẫy linh của các thánh thần. Trong thời cha vua, người nầy tỏ ra thông sáng, hiểu biết, và khôn ngoan như các thần. Cha vua, tức Nê-bu-cát-nết-xa, đã đặt người cai quản các nhà thông thái, tướng số, thuật sĩ, và phù thủy. 12 Người mà tôi nói là Đa-niên mà vua cha đặt cho tên Bên-tơ-sát-xa. Người rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng. Người có thể giải thích chiêm bao cùng các điều huyền bí đồng thời có thể trả lời những vấn đề giải. Hãy gọi Đa-niên, người sẽ giải thích cho vua ý nghĩa của dòng chữ trên vách.”
13 Vậy người ta đưa Đa-niên vào gặp nhà vua. Vua hỏi, “Ngươi có phải là Đa-niên không? Ngươi có phải là một trong những tù binh mà cha ta mang từ xứ Giu-đa không? 14 Ta đã nghe rằng linh của các thần ở trong ngươi và rằng ngươi rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng phi thường. 15 Các nhà thông thái và thuật sĩ được đưa vào đây để đọc dòng chữ nầy và giải thích ý nghĩa nhưng họ không giải nghĩa được. 16 Ta nghe rằng ngươi có thể giải nghĩa mọi điều và biết giải pháp cho các vấn đề khó khăn. Hãy đọc dòng chữ nầy và giải nghĩa cho ta. Nếu làm được, ta sẽ ban cho ngươi áo tím dành cho vua, và vòng vàng đeo cổ. Ngươi sẽ trở thành quan lớn thứ ba trong triều.”
17 Đa-niên tâu với vua, “Xin vua hãy giữ các phần thưởng đó cho mình hay cho người khác. Nhưng tôi sẽ đọc và giải nghĩa hàng chữ viết trên tường cho vua biết.
18 Tâu vua, Thượng Đế Chí Cao đã khiến Nê-bu-cát-nết-xa, cha vua thành một hoàng đế cao cả, oai nghi và hùng cường. 19 Vì Thượng Đế đã khiến người cao trọng nên các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ tiếng đều sợ Nê-bu-cát-nết-xa. Người muốn giết ai thì giết, muốn để ai sống thì để. Người muốn tiến cử ai thì tiến cử, muốn hạ bệ ai thì hạ bệ.
20 Nhưng vua Nê-bu-cát-nết-xa đâm ra quá tự phụ và ương ngạnh cho nên người bị tước ngôi báu. Sự vinh hiển của người bị lấy đi. 21 Người bị đuổi khỏi loài người, trí khôn người trở nên như trí loài vật. Người sống giữa các con lừa hoang và ăn cỏ như bò và thân bị dầm sương. Người ở trong trạng thái đó cho đến khi hiểu ra rằng: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên đất, và Ngài muốn đặt để ai cai trị các nước theo ý mình.
22 Tâu vua Bên-sát-xa, vua đã biết những chuyện ấy vì vua là con cháu con cháu Hay “con.” Từ ngữ nầy không có nghĩa là cả hai đều xuất thân cùng một gia đình mà chỉ có nghĩa là Bên-sát-xa nối ngôi Nê-bu-cát-nết-xa. Nê-bu-cát-nết-xa nhưng vua không chịu khiêm nhường và hạ mình. 23 Trái lại vua đã chống nghịch CHÚA trên trời. Vua ra lệnh mang các ly chén lấy từ đền thờ của CHÚA đến cho vua. Rồi vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ và các hầu thiếp dùng để uống. Vua ca ngợi các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ, và đá là những thần không phải là thần; chúng không thấy, không nghe, không hiểu biết gì cả. Vua không tôn trọng Thượng Đế là Đấng có quyền trên mạng sống và mọi hành động của vua. 24 Cho nên Thượng Đế đã sai bàn tay viết trên vách. 25 Những chữ viết trên vách như sau:
 
mê-nê, mê-nê, tê-ken, và u-phác-xin.’
 
26 Ý nghĩa như sau:
 
Mê-nê§ Mê-nê Một quả cân hay trọng lượng, tương tự như chữ “mi-na” trong tiếng Hê-bơ-rơ. Chữ nầy nghe như tiếng “đếm.”: Thượng Đế đã đếm các ngày cho đến điểm kết thúc của nước vua.
27  Tê-ken* Tê-ken Cũng là một trọng lượng hay vật nặng. Tiếng Hê-bơ-rơ là “sê-ken” có nghĩa là “cân.”: Vua được để trên cân và thấy quá nhẹ.
28  U-phác-xin U-phác-xin Nguyên văn, “Phê-rết” có nghĩa là trọng lượng. Từ ngữ nầy nghe như “chia ra” hay “tách rời.” Đây cũng là tên của xứ Ba-tư.: Nước vua đang bị lấy đi và sẽ bị chia ra và trao cho người Mê-đi và người Ba-tư.”
 
29 Vua Bên-sát-xa liền ra lệnh mặc áo tím cho Đa-niên, mang vòng vàng vào cổ và tuyên bố rằng Đa-niên được thăng làm quan lớn thứ ba trong triều đình. 30 Đêm ấy Bên-sát-xa, vua Ba-by-lôn bị giết. 31 Đa-ri-út người Mê-đi lên ngôi vua lúc được sáu mươi hai tuổi.

*5:2: cha ông Hay “cha.” Người ta không rõ là Bên-sát-xa có phải là cháu của Nê-bu-cát-nết-xa hay không. Trong câu nầy chữ “cha ông” ám chỉ vua tiền nhiệm. Xem câu 11, 18.

5:7: áo vải tím Loại áo mà những người giàu sang và quyền thế mặc, như vua chẳng hạn. Xem câu 16.

5:22: con cháu Hay “con.” Từ ngữ nầy không có nghĩa là cả hai đều xuất thân cùng một gia đình mà chỉ có nghĩa là Bên-sát-xa nối ngôi Nê-bu-cát-nết-xa.

§5:26: Mê-nê Một quả cân hay trọng lượng, tương tự như chữ “mi-na” trong tiếng Hê-bơ-rơ. Chữ nầy nghe như tiếng “đếm.”

*5:27: Tê-ken Cũng là một trọng lượng hay vật nặng. Tiếng Hê-bơ-rơ là “sê-ken” có nghĩa là “cân.”

5:28: U-phác-xin Nguyên văn, “Phê-rết” có nghĩa là trọng lượng. Từ ngữ nầy nghe như “chia ra” hay “tách rời.” Đây cũng là tên của xứ Ba-tư.