Tin mừng theo
Giăng
1
Đấng Cứu Thế đến trần gian
Ban đầu có Thiên Ngôn* Thiên Ngôn Nguyên văn Hi-lạp là “logos,” nghĩa là bất cứ phương tiện truyền thông nào; có thể dịch là “thông điệp.” Đây có nghĩa là Chúa Cứu Thế vì Ngài là phương cách Thượng Đế dùng để cho nhân loại biết về mình. Xem thêm câu 10, 14, 16.. Thiên Ngôn ở với Thượng Đế và Thiên Ngôn là Thượng Đế. Ngài ở với Thượng Đế từ đầu. Mọi vật đều do Ngài tạo dựng. Không có vật gì mà không do Ngài tạo ra. Trong Ngài có nguồn sống, và chính nguồn sống ấy là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu trong bóng tối nhưng bóng tối không dập tắt dập tắt Hay “hiểu.” được ánh sáng.
Có một người được Thượng Đế sai đến tên là Giăng. Ông đến làm chứng về ánh sáng, để nhờ ông mà mọi người có thể tin. Giăng không phải là ánh sáng nhưng ông đến để làm chứng cho dân chúng biết về ánh sáng. Ánh sáng thật đã đến trần gian chiếu sáng cho mọi người.
10 Thiên Ngôn ở trong thế gian. Thế gian do Ngài sáng tạo, nhưng lại không nhận biết Ngài. 11 Ngài đến trong thế giới của Ngài, nhưng dân Ngài không tiếp nhận. 12 Nhưng ai bằng lòng tin nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở thành con Thượng Đế. 13 Họ trở thành con Thượng Đế không phải theo cách loài người, nghĩa là sinh ra do cha mẹ hoặc ý người mà họ được Thượng Đế sinh thành.
14 Thiên Ngôn trở thành người và sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy vinh hiển của Ngài, là vinh hiển dành cho Con Một của Cha. Ngài đầy ân phúc và chân lý. 15 Giăng làm chứng về Ngài và kêu lên, “Đây là Đấng mà tôi đã nói với các ông bà: ‘Đấng đến sau tôi còn cao trọng hơn tôi vì Ngài có trước tôi.’ ”
16 Vì Ngài tràn đầy ân phúc ân phúc Tình yêu và lòng nhân từ mà Thượng Đế ban cho dân Ngài. Đó là những ân huệ và phúc lành mà họ không đáng nhận. cho nên nhờ Ngài mà chúng ta nhận hết ân phúc nầy đến ân phúc khác§ ân phúc nầy đến ân phúc khác Nguyên văn, “ân phúc nầy thay ân phúc khác.”. 17 Luật lệ được Mô-se ban hành còn ân phúc và chân lý đến từ Chúa Cứu Thế Giê-xu. 18 Chưa có ai thấy được Thượng Đế trừ ra Con Một ở ngay cạnh Cha* Con Một … cạnh Cha Nguyên văn, “Thượng Đế duy nhất ở ngay cạnh Cha, đã trình bày Ngài cho chúng ta biết.” là Đấng đã bày tỏ Thượng Đế cho chúng ta biết.
Giăng Báp-tít làm chứng
về Đấng Cứu Thế
(Ma 3:1–12; Mác 1:2–8; Lu 3:15–17)
19 Đây là sự thật mà Giăng xác nhận khi người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem sai các thầy tế lễ và người Lê-vi đến hỏi, “Ông là ai?”
20 Giăng tuyên bố công khai, không tránh né điều gì. Ông xác nhận, “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế.”
21 Cho nên họ hỏi, “Thế thì ông là ai? Ông có phải là Ê-li không?”
Giăng đáp, “Không phải.”
Họ hỏi tiếp, “Ông có phải là nhà tiên tri không?”
Ông đáp, “Cũng không phải.”
22 Họ hỏi thêm, “Thế thì ông là ai? Xin cho chúng tôi biết để trình lại với những người đã sai chúng tôi đến. Ông tự xưng mình là ai?”
23 Giăng trích lời nhà tiên tri Ê-sai như sau, “Tôi là tiếng người kêu trong sa mạc, ‘Hãy san phẳng lối đi cho Ngài.’ ”
24 Mấy người được nhóm Pha-ri-xi sai đến hỏi Giăng: 25 “Nếu ông không phải Đấng Cứu Thế, không phải Ê-li, cũng không phải nhà tiên tri thì tại sao ông làm lễ báp-têm cho dân chúng?”
26 Giăng đáp, “Tôi làm báp-têm bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các anh mà các anh không biết. 27 Ngài đến sau tôi, còn tôi cũng chẳng xứng đáng mở dây giày Ngài nữa.”
28 Mọi chuyện ấy diễn ra ở làng Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, nơi Giăng làm báp-têm cho dân chúng.
Chúa Giê-xu, Chiên Con
của Thượng Đế
29 Hôm sau Giăng thấy Chúa Giê-xu đi đến thì bảo rằng, “Kìa là Chiên Con của Thượng Đế, Chiên Con của Thượng Đế Danh hiệu của Chúa Giê-xu, nghĩa là Ngài ví như chiên con chịu hi sinh làm của lễ dâng lên cho Thượng Đế. Đấng xóa tội trần gian. 30 Đây là người mà tôi đã nói, ‘Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi vì Ngài vốn có trước tôi.’ 31 Dù tôi chưa biết Ngài nhưng tôi đến làm báp-têm bằng nước để giúp dân Do-thái biết về Ngài.”
32 Sau đó Giăng kể, “Tôi thấy Thánh Linh từ trời hiện xuống giống hình chim bồ câu đậu trên Ngài. 33 Đến lúc ấy tôi vẫn chưa biết Ngài là ai nhưng Thượng Đế, Đấng đã sai tôi để làm báp-têm bằng nước, bảo tôi rằng, ‘Hễ con thấy Thánh Linh ngự xuống trên ai thì đó chính là người sẽ làm báp-têm bằng Thánh Linh.’ 34 Tôi đã chứng kiến việc ấy nên tôi bảo thật: Người nầy là Con Thượng Đế.”
Các môn đệ đầu tiên
của Chúa Giê-xu
35 Hôm sau Giăng đang đứng đó với hai môn đệ 36 thì thấy Chúa Giê-xu đi ngang qua. Giăng liền bảo, “Kìa là Chiên Con của Thượng Đế!”
37 Hai môn đệ nghe Giăng nói thế liền đi theo Ngài. 38 Chúa Giê-xu quay lại thấy hai người theo mình liền hỏi, “Các anh em tìm gì?”
Họ đáp, “Thưa Ra-bi ở đâu?” Chữ Ra-bi có nghĩa là “Thầy.”
39 Ngài bảo, “Mời các anh em đến xem.” Họ liền đi, thấy nơi Ngài ở và trọ lại với Ngài suốt hôm đó. Lúc ấy khoảng bốn giờ chiều.
40 Một trong hai người đi theo Chúa Giê-xu sau khi nghe Giăng nói về Ngài là Anh-rê, em của Xi-môn Phia-rơ. 41 Trước tiên ông đi tìm Xi-môn, anh mình và thuật, “Chúng em đã tìm được Đấng Mê-si.” Danh từ Mê-si có nghĩa Đấng Cứu Thế.
42 Sau đó ông đưa Xi-môn đến gặp Chúa Giê-xu. Vừa thấy Xi-môn Ngài bảo, “Tên anh là Xi-môn, con của Giăng. Từ nay anh sẽ được gọi là Xê-pha.” Xê-pha nghĩa là Phia-rơ Phia-rơ “Phia-rơ” trong tiếng Hi-lạp cũng như danh từ “Xê-pha” trong tiếng A-ram nghĩa là “tảng đá.”.
43 Hôm sau Chúa Giê-xu quyết định lên miền Ga-li-lê. Ngài gặp Phi-líp và bảo, “Hãy theo ta!” 44 Phi-líp gốc gác ở thành Bết-xai-đa, cùng quê với Anh-rê và Phia-rơ. 45 Phi-líp gặp Na-tha-niên, bảo rằng, “Chúng tôi đã gặp được Đấng mà Mô-se có viết trong sách Luật và các nhà tiên tri cũng đề cập tới. Ngài là Giê-xu, con Giô-xép, quê ở Na-xa-rét.”
46 Na-tha-niên hỏi Phi-líp, “Có cái gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao?”
Phi-líp đáp, “Thì hãy đến mà xem.”
47 Khi Chúa Giê-xu thấy Na-tha-niên đến với mình liền bảo, “Đây là một người Ít-ra-en chân thật, không có chút gì giả dối§ không có chút gì giả dối Hay “một người đáng tin cậy.” Trong Cựu Ước Gia-cốp (một tên khác của Ít-ra-en) thường dùng để mô tả sự lường gạt hay xảo quyệt..”
48 Na-tha-niên hỏi, “Làm sao thầy biết con?”
Chúa Giê-xu đáp, “Trước khi Phi-líp gọi con, ta đã thấy con ngồi dưới gốc cây vả.”
49 Na-tha-niên thưa, “Thưa thầy, thầy đúng là Con Thượng Đế! Thầy thật là Vua của dân Ít-ra-en!”
50 Chúa Giê-xu hỏi Na-tha-niên, “Có phải con tin chỉ vì ta nói đã thấy con ngồi dưới gốc cây vả không? Con sẽ còn thấy nhiều điều kỳ diệu hơn thế nữa!” 51 Rồi Ngài bảo ông, “Ta bảo thật, các con sẽ thấy bầu trời mở ra và các thiên sứ của Thượng Đế lên xuống* các con … trên Con Người Sáng 28:12. trên Con Người.”

*1:1: Thiên Ngôn Nguyên văn Hi-lạp là “logos,” nghĩa là bất cứ phương tiện truyền thông nào; có thể dịch là “thông điệp.” Đây có nghĩa là Chúa Cứu Thế vì Ngài là phương cách Thượng Đế dùng để cho nhân loại biết về mình. Xem thêm câu 10, 14, 16.

1:5: dập tắt Hay “hiểu.”

1:16: ân phúc Tình yêu và lòng nhân từ mà Thượng Đế ban cho dân Ngài. Đó là những ân huệ và phúc lành mà họ không đáng nhận.

§1:16: ân phúc nầy đến ân phúc khác Nguyên văn, “ân phúc nầy thay ân phúc khác.”

*1:18: Con Một … cạnh Cha Nguyên văn, “Thượng Đế duy nhất ở ngay cạnh Cha, đã trình bày Ngài cho chúng ta biết.”

1:29: Chiên Con của Thượng Đế Danh hiệu của Chúa Giê-xu, nghĩa là Ngài ví như chiên con chịu hi sinh làm của lễ dâng lên cho Thượng Đế.

1:42: Phia-rơ “Phia-rơ” trong tiếng Hi-lạp cũng như danh từ “Xê-pha” trong tiếng A-ram nghĩa là “tảng đá.”

§1:47: không có chút gì giả dối Hay “một người đáng tin cậy.” Trong Cựu Ước Gia-cốp (một tên khác của Ít-ra-en) thường dùng để mô tả sự lường gạt hay xảo quyệt.

*1:51: các con … trên Con Người Sáng 28:12.